Thai chưa vào tử cung có phá được không?
Lượt xem: 4826
Thai chưa vào tử cung có phá được không? Câu trả lời là hoàn toàn không. Do đó, trường hợp tự ý sử dụng thuốc để bỏ thai sẽ khiến việc phá thai diễn ra không thành công, vì khi đó, thai vẫn phát triển trong buồng tử cung của người mẹ. Hậu quả là thai dễ mắc phải các dị tật, khuyết tật bẩm sinh làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển sau này.
Thai chưa vào tử cung có phá được không?
Thai chưa vào tử cung có phá được không?
Thai chưa vào tử cung có phá được không? Trường hợp thai chưa vào tử cung thì chị em không nên thực hiện bỏ thai. Nguyên nhân là do khi thai chưa vào tử cung thì thai chưa có tim thai do kích thước của phôi thai quá nhỏ, chưa bám vào đúng vị trí để phát triển. Do đó, trong trường hợp này sẽ không thực hiện phá thai an toàn được.
Các bác sĩ chuyên khoa cho biết khi thai có kích thước nhỏ, đặc biệt là khi thai chưa đi vào tử cung và chưa có độ bám dính nên rất khó để xác định, kiểm tra được vị trí của phôi thai. Nếu tiến hành bỏ thai không đảm bảo an toàn, đúng cách sẽ khiến việc bỏ thai không thành công, dẫn đến hiện tượng sót nhau, sót thai. Những trường hợp sót nhau, sót thai cần phải tiến hành lấy ngay phôi thai ra ngoài và gây ra cảm giác đau đớn, chảy máu cho thai phụ.
Chính vì vậy, cách tốt nhất, chị em nên kiên nhẫn chờ khi nào phôi thai đã di chuyển vào tử cung thì mới nên đình chỉ thai. Các bác sĩ cũng cho biết, sau khoảng từ 4 – 5 tuần, phôi thai đã di chuyển từ ống dẫn trứng vào buồng tử cung và thời điểm thích hợp để bỏ thai là khi thai từ 5 – 12 tuần tuổi.
Nữ giới tuyệt đối không nên bỏ thai khi phôi thai chưa di chuyển vào tử cung bằng các phương pháp phá thai thông thường. Đặc biệt, chị em không tự ý đi mua thuốc phá thai về để bỏ thai bởi phương pháp phá thai chỉ áp dụng cho trường hợp thai đã nằm trong tử cung, người mẹ có tình trạng sức khỏe đảm bảo.
Có khá nhiều chị em khi lỡ mang thai ngoài ý muốn vì lo sợ bạn bè, người thân biết nên đã tự ý đi mua thuốc về để bỏ thai. Và chị em phải đối mặt với không ít hậu quả, biến chứng cực kỳ nguy hiểm đối với sức khỏe cũng như khả năng làm mẹ về sau.
Những dấu hiệu nhận biết thai chưa vào tử cung
Nhận biết thai chưa vào tử cung giúp chị em có thể lựa chọn thời điểm đình chỉ thai an toàn
Những dấu hiệu nhận biết thai chưa vào tử cung dưới đây sẽ giúp nữ giới có kế hoạch chăm sóc thai kỳ phù hợp, đặc biệt là với những chị em mang thai ngoài ý muốn có thể lựa chọn thời điểm đình chỉ thai thích hợp, phòng tránh những nguy cơ biến chứng có thể xảy ra.
✧ Chu kỳ kinh nguyệt thay đổi
Trước hết, quá trình thụ thai sẽ khiến chị em bị chậm kinh. Đây là dấu hiệu đầu tiên của thai kỳ. Nếu chậm kinh khoảng 5-10 ngày thì khả năng phôi thai đã vào tử cung và đây cũng là dấu hiệu thai đã vào tổ an toàn. Nhưng nếu kinh chậm quá khoảng thời gian trên mà khi thử thai vẫn chưa lên 2 vạch, có thể đây là dấu hiệu thai chưa vào tử cung.
✧ Đau bụng dưới hoặc đau lưng
Khi thai chưa bám vào tử cung, nữ giới có thể cảm thấy căng tức, đau bụng dưới hoặc đau lưng do tử cung to và mềm ra để chuẩn bị cho trứng thụ tinh làm tổ.
✧ Xuất huyết âm đạo bất thường
Dấu hiệu thai chưa vào tử cung tiếp theo này nữ giới cần rất cẩn trọng nếu gặp phải. Xuất huyết âm đạo nhiều, bất thường, có màu đỏ sẫm hay nâu nhạt hoặc thấy cục máu đông. Khi ấy, chị em nên cân nhắc đến khả năng mang thai ngoài tử cung. Trong trường hợp đó, hãy đến thăm khám bác sĩ càng sớm càng tốt để được can thiệp kịp thời. Nếu âm đạo ra máu không nhiều, màu hồng thì bạn có thể yên tâm vì đó là máu báo thai.
Tư vấn y khoa: Bác Sĩ Vân
Hiện nay, phòng khám đang xây dựng hệ thống Tư vấn online miễn phí nhanh chóng - đơn giản - thuận tiện, nhằm phục vụ tốt nhất cho nhu cầu khám chữa bệnh với hai kênh tư vấn:
- Tư vấn qua số điện thoại: 028.2206.3333
- Tư vấn qua chat trực tuyến tại đây
Đừng ngại chia sẻ tình trạng của bạn với các tư vấn chuyên khoa của chúng tôi, bởi mọi thắc mắc của bạn sẽ được các tư vấn giải đáp miễn phí và cho lời khuyên tốt nhất.
Để đăng ký và lấy số đặt hẹn khám trước, bạn vui lòng bấm vào ô tư vấn dưới đây
* Lưu ý: hiệu quả của việc hỗ trợ điều trị còn tùy thuộc vào cơ địa của mỗi người.